DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA ĐÌNH TRÚC SƠN, LÀNG TRÚC SƠN, XÃ ĐÔNG SƠN, HUYỆN THỦY NGUYÊN

Làng Trúc Sơn ( ) thuộc xã Đông Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Trước năm 1945 là xã Trúc Sơn, tổng Dưỡng Chính, phủ Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An. Trước năm 1813 là thôn Trúc Sơn, tổng Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Trước đời Đồng Khánh chuyển lên xã. Đến đời Đồng Khách, xã Trúc Sơn có thêm thôn Trà Sơn (nay là làng Trà Sơn thuộc xã Kênh Giang). Trước năm 1901, tổng Dưỡng Chân đổi là Dưỡng Chính. Danh sách làng xã năm 1927 ghi tên xã Chúc Sơn, hồ sơ thần tích năm 1938 ghi Trúc Sơn.

Căn cứ theo thanh Thượng lương của Tòa Tiền đường có ghi niên đại Khải Định lục niên (1921), qua đó có thể khẳng định Đình Trúc Sơn có niên đại muộn nhất vào cuối thời Nguyễn. Tuy nhiên, theo truyền khẩu địa phương qua nhiều thế hệ, Đình được khởi dựng từ thời Hậu Lê, thời vua Lê Duy Phường, niên hiệu Vĩnh Khánh tam niên (1731), được xây dựng ngay sau khi lập làng Trúc Sơn. Sau đó, qua nhiều lần sửa chữa và dịch chuyển, có quy mô và vị trí như hiện nay; niên đại Khải Định lục niên (1921) chỉ là thời điểm sửa chữa và dịch chuyển vị trí lần cuối của Đình. Giai đoạn 2013-2014, đình được nhân dân hưng công, góp sức trùng tu lại toàn bộ với tổng kinh phí gần 700 triệu đồng.

Đình Trúc Sơn thờ nhị vị thành hoàng:

- Vị thứ nhất: Nguyễn tự Linh Quang (theo nhận định của đoàn kiểm kê có thể là Linh Quang Đại vương - Nguyễn Hùng (thời Lý)): Theo Cuốn “Từ điển bách khoa Địa danh Hải Phòng”: Nguyễn Hùng là nhân tài thời Lý Nam Đế (503–548), có công dẹp giặc Ai Lao quấy nhiễu biên giới. Sau khi mất ở quê, vua sai lập đền thờ, phong thần hiệu “Linh Quang Đại vương”. Vị này còn được thờ tại đền Trịnh Xá (làng Trịnh Xá, xã Thiên Hương). Theo thần phả đền Trịnh Xá, vị này sống vào thời Lý – Hậu Lý (1009–1225), không phải thời tiền Lý. Theo đó, vào thời vua Lý Nhân Tông (1066 – 1127), tại trang Trịnh Xá có vị tù trưởng họ Nguyễn tự là Trạch, vợ là Trần Thị Chinh (Trinh) là người hiền hòa, nhân đức, được xóm làng kính trọng. Vào ngày 12/2/1086, người vợ hạ sinh được người con trai đặt tên là Hùng. Từ lúc mới sinh, cậu bé đã có tướng mạo và khí chất hơn người. Vào năm 1104, Nguyễn Hùng đã giúp Lý Thường Kiệt đánh giặc Chiêm Thành, lập được công lớn. Thắng trận trở về, ông được nhà vua ban thưởng hậu hĩnh. Sau ông xin được về quê, bày tiệc lớn mời nhân dân trong trang tham dự, ông mất giữa lúc đang vui cùng nhân dân vào ngày 20/10. Nhà vua biết tin, sai ban sắc chỉ về trang, truyền cho dân làng lập miếu thờ tự và ban cho mỹ tự “Đương cảnh thành hoàng Linh Quang đại vương”.

Vị thứ hai: Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng, một nhân vật lịch sử thời Lý - Trần: Đông Hải Đại Vương, tên thật là Đoàn Thượng, là tướng nhà Lý và là một sứ quân chống lại triều đình thời Lý - Trần. Ngài sinh ngày 10 tháng Giêng năm Giáp Thân (1184) đời vua Lý Cao Tông, mất năm 1228. Theo Ngọc phả ở Hải Dương, ngài là con của ông Đoàn Trung và bà Hoàng Thị Mỹ. Sử sách ghi ngài người làng Thung Độ, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Theo “Đại Việt Sử ký Toàn Thư”, ông có cùng một vú nuôi với vua Lý Cao Tông. Lớn nên giữa lúc triều đình nhà Lý suy vị, nhờ tài năng mà Đoàn Thượng vươn lên trở thành một hào trưởng nổi tiếng ở Hồng châu (gồm các huyện Cẩm Giàng, Bình Giang, Thanh Miện, Gia Lộc, Ninh Giang và Tứ Kỳ đều thuộc Hải Dương ngày nay). Trước cảnh triều đình mục nát, hào kiệt nhiều nơi nổi dậy, Đoàn Thượng cũng dấy binh tại quê nhà chống lại triều đình. Vua Lý Cao Tông đã nhiều lần cho quân đi đánh dẹp Đoàn Thượng nhưng không thành. Sau thấy thế triều đình mạnh, Đoàn Thượng bèn sai người ngầm đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho ông nhờ vậy mà ông đã thoát nạn. Sau Đoàn Thượng giúp vua Lý Huệ Tông (tức Thái tử Sảm) chống lại thế lực họ Trần do Trần Tự Khánh cầm đầu nhưng lực lượng họ Trần quá mạnh buộc vua Lý Huệ Tông phải dựa vào họ Trần, do đó Đoàn Thượng cũng tạm quy hàng, được phong tước vương và vẫn giữ vùng Hồng châu. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, em họ là Trần Thủ Độ lên thay, tiếp tục thao túng triều đình nhà Lý. Thủ Độ sắp xếp đưa cháu là Trần Cảnh (con Trần Thừa) lên thay ngôi nhà Lý, lập ra nhà Trần. Tiếp đó, Trần Thủ Độ mang quân đi đánh Đoàn Thượng nhưng không thắng, đành phải hứa hẹn phong tước cho ông. Thủ Độ định ngày hội họp, làm lễ minh thệ, nhưng Đoàn Thượng không đến họp. Năm 1228, Đoàn Thượng bị sứ quân Nguyễn Nậu là hào trưởng (bộ tướng cũ của Trần Tự Khánh) cát cứ tại khu vực Bắc Giang giết chết. Ông mất năm 45 tuổi.

Ngoài ra, Đình còn thờ vị Hậu thần là cụ Hoàng Thị Cỏn (thời Hậu Lê): Bà vốn là người An Đồng, An Dương; sau làm dâu họ Tạ nên theo chồng về sinh sống tại làng Trúc Sơn. Bà cùng chồng là người có công lập nên làng Trúc Sơn, ngôi làng cổ có lịch sử trên 300 năm (tương truyền làng được lập nên từ thời vua Lê Duy Phường, niên hiệu Vĩnh Khánh tam niên). Bà hóa ngày 27/8 âm lịch.

Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Đình Trúc Sơn là nơi nuôi dấu cán bộ, chiến sỹ cách mạng. Ngay tại khuôn viên đình đã có 01 chiến sỹ của ta bị giặc sát hại dã man.

Hằng năm, theo lệ, Đình Trúc Sơn duy trì 3 kỳ lễ tiết chính (tính theo âm lịch) vào các dịp: Lễ hội truyền thống vào ngày 9-11/01. Lễ giỗ Hậu Thần cụ Hoảng Thị Cỏn vào ngày 27/8. Lệ đình cuối năm vào ngày 08/11. Trong ngày lễ hội chính (09-11/01), đình thường mời các đoàn tế của các địa phương có mối giao hảo với địa phương tại các xã: Mỹ Đồng, Tân Dương, Thủy Đường, Hòa Bình, Kênh Giang về giao lưu, kính tế. Thời gian trước đây, trong lễ hội làng còn tổ chức Đám rước Kiệu Thần quanh làng, sau lệ này đã dần bị mai một. Lễ hội đình Trúc Sơn là một trong những lễ hội truyền thống còn lưu giữ được nhiều trò chơi dân gian, tiêu biểu như: Cờ tướng, Chọi gà, Kéo co, Đập niêu đất, Đu tiên và một số môn thể thao như Bóng chuyền, Cầu lông,…

Hiện nay, ngoại trừ 02 bộ vì đầu hồi của Tiền đường được làm lại, thì đình Trúc Sơn bào lưu gần như nguyên vẹn bộ khung đình cũ (được nhận định có niên đại muộn nhất vào năm 1921). Về mặt kiến trúc, Đình có bố cục kiểu chữ “Đinh”” chuôi vồ, đây là thức kiến trúc phổ biến, thường gặp tại các ngôi đình làng Bắc Bộ, cũng như tại huyện Thủy Nguyên.

Giá trị nghệ thuật nổi bật của Đình thể hiện ở các mảng chạm khắc (chạm bong kênh, chạm nổi) tại các Bức cốn (vì nách) và Đầu dư,... của tòa Tiền đường hoặc trên vì Ván mê (vì nóc),... gian Hậu cung. Các mảng trang trí với các đề tài đậm chất linh thiêng như: Tứ Linh, Long ẩn Vân, Trúc hóa Long, Hổ phù,... Các mảng chạm khắc mang dấu ấn nghệ thuật thời Nguyễn, phản ánh tài năng khéo léo của các nghệ nhân xưa, đồng thời cũng phần nào thể hiện những cố gắng của nhân dân địa phương trong việc bảo tồn, lưu giữ một công trình tôn giáo, tín ngưỡng có giá trị văn hóa, nghệ thuật của địa phương nói riêng và của huyện Thủy Nguyên nói chung.

Hai bộ vì đầu hồi tuy là cấu kiện được làm lại từ năm 2013, nhưng cũng thể hiện nhiều mảng chạm khắc với các đề tài hoa lá cách điệu, đăng đối trên các bộ vì là các hán tự “Phúc” - ”Lộc”, “Thánh anh linh” – “Dân khang thịnh” bày tỏ hy vọng và niềm tin của dân làng vào các đức Thành hoàng uy linh sẽ bảo hộ cho dân chúng cuộc sống ấm lo, hạnh phúc./.

Thông tin mới nhất
Tin khác
DI TÍCH LỊCH SỬ ĐÌNH NGHÊ XÃ CHÍNH MỸ, HUYỆN THỦY NGUYÊN, HẢI PHÒNG
Đình Nghê thuộc xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tên Đình...
ĐÌNH CẢ XÃ AN LƯ, HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Đình Cả xã An Lư là nơi duy nhất trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên thờ...
DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN AN BẠCH XÃ AN LƯ, HUYỆN THUỶ NGUYÊN
Đền An Bạch xã An Lư thờ Hội đồng Trần triều, tọa lạc trong quần thể...