Phả ghi về hai vị Đại vương, công thần
của triều Hùng
(Bản chính của bộ Lễ trong triều đình).
Nước Việt xưa, trời Nam khởi vận, Thánh tổ gánh vác cơ đồ hơn hai nghìn năm. Vua Hùng
dựng nước đặt tên hiệu, là tổ của Bách Việt cứ thế
đắp đổi, về sau, người học nho có ca ngợi rằng:
“Lịch Nam thiên vận sáng khai trung,
Độc kiến Hùng
triều thập bát phong.
Đế đức nguy nguy đồng hậu đại
Ức niên phối nhật nguyệt tương đồng”
(Nghĩa là:
Trải cõi
trời Nam dựng mở vận lớn lao,
Chỉ thấy
triều Hùng 18 đời hưng thịnh.
Đức của vua cao vòi vọi dày dặn lớn lao,
Vạn năm mãi
sánh cùng mặt trời, mặt trăng)
Lại nói, bấy giờ vua Hùng
còn con cháu truyền lại đến Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, tất cả là 349
năm. Sông núi nước Nam thuộc theo trong quận. Kịp cho đến bốn họ Đinh, Lê, Lý,
Trần, đều là bậc vua anh minh nối tiếp nhau cai trị. Bấy giờ, khoảng đời vua Lý
Nam Đế chiến đấu chống lại bọn giặc Lương, Nguyên. Khi đó, [12b] uy đức của vua rộng lớn, sâu xa, anh hùng
cái thế, hết thảy người đời đều khen xưng là bậc vua hiền
Lại nói, đời truyền lại, ở
trang Thủy Đường, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương, có một người
thuộc danh gia lệnh tộc họ Phạm, húy là Hoằng, lớp vợ
người bản trang, tên Hoàng Thị Bích. Vợ chồng tình yêu thương sâu đậm, thắm thiết, kết đôi
duyên lành, gắn kết hòa hợp được khoảng 5, 6 năm. Khi ấy, Hoằng công đã 21 tuổi, thái bà 20 tuổi. Gia cảnh thanh bần,
cần kiệm, cực nhọc. Khi đấy, vợ chồng dựng một ngôi quán
cỏ ở trong trang để ở, lấy trà Nam bán cho khách để làm kế sinh nhai. Vợ chồng
một lòng tu nhân sửa thiện. Sự vật đều theo điều phúc, thiện làm ra. Vậy nên từ đấy, người lái buôn, khách mua đa phần
tập trung ở quán làm chốn nghỉ chân. Ngày càng
nhiều thêm, lâu dần mà thành chợ. Hoằng
công bèn dựng một cây tre trúc ở chợ. Lại treo dải lụa hồng có viết bốn chữ rằng: “Tự nhiên chi thị” (nghĩa là: Chợ tự nhiên). [13a] Người của chợ
ở trong trang về sau dựa theo tên mà truyền lại gọi là “Chợ Phiên” (là Chợ Phướn).

Từ đấy, vợ chồng tăng thêm lòng làm phúc.
Vào giờ Tý, ngày mùng 1 tháng 3 năm đó, Thái bà mơ thấy một đôi rắn
vàng quấn vòng quanh trên thân mình, đột
nhiên bà giật mình tự tỉnh giấc, biết rõ được báo mộng. Thái bà bèn kể cho Hoằng công. Hoằng công bảo rằng:
“Chẳng phải điều xấu thì cũng là điều tốt, mặc theo ý trời vậy.
Sống chết có mệnh, phú quý do trời, sao phải lo lắng làm gì?”. Được 100 ngày sau, bà cảm động mà có
thai (sinh vào giờ Ngọ, ngày mùng 10 tháng 4 năm đấy), rồi sinh hạ một
bọc được 2 người con trai, dung mạo khôi ngô lạ thường,
thân hình cao lớn, mặt rồng hàm hổ, thân mình bên
trong sắc đỏ, hình dáng và tướng mạo đều khác với người thường, rồi nuôi nấng dạy
dỗ trưởng thành. Đến năm lên 3 tuổi, cha mẹ bèn đặt
cho người con trai đầu là Quang, người con trai thứ hai là Nghiêm. Các con hết thảy đều tinh thông văn tự, nghe một biết mười, võ nghệ [13b] siêu quần, chẳng phải người thường mong được.
Cha mẹ nhìn thấy các con tính bẩm thông minh, cha mẹ cùng vui mừng mà nói với nhau rằng: “Trời ban cho phúc lành mà con của
ta ngày sau cũng có thể lưu truyền danh vọng”.
Lại nói, khi đó hai người con trai được
6 tuổi, Thái bà ngay nửa canh đêm ngày hôm
ấy lại mơ thấy một rắn, một
rồng lượn quanh trước mặt, đột nhiên tự chuyển động, Thái bà tự nhiên tỉnh giấc. Thái bà lại kể tường tận giấc mơ với Hoằng công. Hoằng công bảo
rằng: “Trước kia điềm báo đã tốt lành, sau này ắt chẳng phải điều
xấu, cũng không đáng phải lo ngại”. Từ đấy, trong mình Thái bà chuyển động. Thái bà cảm động mà có thai. Từ sau khi mang thai, ăn uống không giống người thường. Cho đến
đầy tháng (tức sinh vào giờ Mão,
ngày 15 tháng 9 năm Ất Mùi), sinh hạ một bọc gồm một trai, một gái. Người con trai diện mạo hồng hào, sáng
sủa, thân hình cao lớn. Người con gái mặt mày giống
như mặt trời hồng, mắt mày thanh tú, dáng vẻ yểu điệu. Hết thảy đều [14a] khác
với người anh trước, mà thế gian cũng không
có. Cha mẹ chăm lo, nuôi dưỡng trưởng thành cho đến 100 ngày, cha mẹ bèn đặt
tên con trai là Huấn, con gái là Cúc Nương. Cha mẹ thấy hai lần song sinh đều do báo
mộng, ắt hẳn có phúc lành lại đến. Trong lòng cha mẹ lấy làm mừng vui. Từ đấy, cha mẹ nuôi nấng dạy dỗ, hết mực yêu quý
như châu báu. Ngày ngày nhìn thấy các con mình tài năng xuất chúng, trí dũng hơn người.

Ngày qua tháng lại, người con thứ nhất,
người con thứ hai đều 18 tuổi; người con thứ ba, người con gái
thứ tư đều 15 tuổi, thì chẳng may cha mẹ đều qua đời (tức giờ Ngọ, ngày 18 tháng 4). Trong khi đấy, anh em hết thảy
đều còn nhỏ dại, chưa hiểu rõ tính mệnh như thế
nào? Anh em tự bảo nhau rằng: “Cùng chết ắt là cùng
chung nấm mộ”. Nay ắt chọn ngày làm lễ an táng.
Bấy giờ, nhân dân, người già của bốn khu trong trang (tức trang Thủy Đường)
nghe thấy vợ chồng Hoằng công đều mất, cảm động nhân đức
của họ mà kéo đến viếng lễ. Các người con mời
người rước tang, an táng tại xứ đất của bản [14b] trang. Người già, nhân dân đi đưa tiễn đến chỗ huyệt mộ. Người
dân than rằng: “Rõ ràng thấy phúc lành có trở đi trở lại mà họa vô đơn chí”.
Mộ phần đều an táng tại phía Đông của dân. Tục truyền lại, dựa theo tên mà gọi
là Đống Mả Đơn (là Mả Thuyền). Việc an táng đã xong, anh em hương hỏa thờ phụng
trong 3 năm, để tang đến hết kỳ tang, gia phong ngày càng
tốt lành, thịnh vượng. Dân trong trang nhìn thấy
chỗ đắc địa ắt hẳn có phúc lành đến, lại càng thêm kính trọng. Hết thảy đều tôn kính, nhún nhường họ.
Lại nói, đương khi đấy, cuối đời triều Đinh, đầu đời Lê phục hưng, bỗng có giặc xaam
lược, cất chứa tinh binh, ngấm ngầm tướng với ngựa. Vua nghe thấy rất mực lo lắng,
vời gọi bề tôi trong triều cùng đến họp bàn. Vua bèn
dấy binh thẳng tiến đến chỗ đồn giặc đóng quân, dựng
đồn ở chỗ bến sông Bạch Đằng, để đánh tiếp giáp giặc. Vua ban đầu tiến quân đến địa giới trang Thủy Đường,
huyện Thủy Đường, thì mặt trời đã khuất sau núi, trời sắp sửa [15a] tối muộn. Vua bèn binh đồn đóng ở địa giới của
trang đấy (tức trang Thủy Đường). Vua tiến qua trang đấy thì
thấy một gò đất cao lớn, rồi truyền cho
quân lính đóng đồn ở đấy. Lại thấy trong trang có một chợ nhỏ. Vua tiến vào
trong chợ dựng đồn ở đấy. Ngay đêm hôm ấy, binh đồn khu gò đất hết thảy đều mơ thấy một người tướng
mạo đường hoàng, thần uy oai vệ, mình cưỡi ngựa đỏ đứng ở trước đồn quân lính bảo rằng: Ta chính là Thủy thần bản thổ. Nay trong nước có việc ban thưởng quân lính một bữa ăn, để
quân sĩ thêm khỏe mạnh.
Tự nhiên, bỗng thấy cơm đầy trong đồn, quân lính bèn ăn no say, hết thảy đều cường
tráng (Về sau tục đặt tên là xứ Đống Cơm).

Đến sáng sớm ngày hôm sau, quân lính tâu lên với nhà Vua. Nhà Vua lấy làm kỳ lạ, lại đi đến chỗ đấy xem xét.
Nhà vua bèn dựng đàn cầu cúng. Lại khấn cầu rằng: Nay trong nước xảy
ra cơ sự giặc cướp nổi lên muôn phương. Trẫm tiến quân đánh giặc một trận, xin ngầm giúp đỡ bảo hộ để tự dẹp yên được giặc rồi, ắt sẽ phong tặng thêm. Cầu cúng xong xuôi,
[15b] vào nửa đêm ngày hôm đấy, nhà vua lại
mơ thấy một người cũng giống như Thần
báo mộng lần trước, đứng ở trước nhà vua mà tâu rằng: Thần chính là Thần Nước thiêng
của đất này, thấy nhà vua đóng
quân ở đấy, trông thấy quân lính vừa đói
vừa mệt nên cũng ban cho quân ăn no. Nay trong nước của Vua xảy ra cơ sự, quân giặc nổi lên khắp nơi, thần
xin nguyện ngầm giúp đỡ, giữ gìn. Nay ở trong trang có 4 anh em con nhà họ
Phạm, gồm 3 trai, 1 gái, đều có tài năng võ nghệ, gồm cả thao
lược. Nhà vua nhất định phải tin dùng họ để giúp đỡ nhà vua. Giặc trong nước
ắt sẽ định yên. Nhà vua bèn tỉnh giấc, biết rõ Thần báo mộng, liền làm lễ tạ. Lễ xong, nhà vua lại
vào đồn trú ở chợ nhỏ trong trang, vời gọi người già, nhân dân hỏi han đầu
đuôi gốc rễ sự việc. Nhân dân tâu bày rõ ràng sự việc, rồi bèn
vời gọi các con nhà họ Phạm bảo rằng: Nay Trẫm đang có việc quân giặc nổi lên khắp nơi. Hay tin các người con là
bậc anh tài, trẫm tín nhiệm để trợ giúp việc nước cho
vua, thì trẫm không có gì phải lo lắng nữa.
Khi đấy, các người con bái
yết trước nhà vua mà tâu lên rằng: Xin về [16a] bái vọng từ đường tiên tổ. Lễ xong, bốn người anh em, gồm
3 nam, 1 nữ cùng đến bái yết trước nhà vua, xin gánh vác thay vất vả của
nhà vua mà đi chinh phạt. Nhà vua chuẩn cho. Vua bèn
ban phong tước cho ông thứ nhất làm Đại tướng quân, ông thứ hai làm Trung Hoa tể,
ông thứ ba làm Sơn Nam Thái thú, người em gái thứ tư làm
Mẫu Nghi Thiên Hạ. Các ông đều đã nhận tước phong, rồi xin đem quân
tiến đến chỗ giặc đánh một trận. Giữa lúc đang trận chiến, tự nhiên trời đất tối
mù, mưa gió nổi lên, làm quân
giặc tự bỏ chạy tan tác trở về nước của chúng,
giặc tự dẹp yên rồi, các ông thu binh về triều bái yết nhà vua.
Vua bèn hành lễ bái tạ Thần linh báo mộng.
Lại truyền bảo nhân dân dựng một ngôi miếu, hương hỏa phụng thờ. Lại khao thưởng
quân sĩ, ban thêm cho các ông 100 cân bạc, 100 tấm vải lụa. Các ông mỗi người đều
đã nhận ơn ban, rồi xin trở về tỉnh thăm [16b] mộ phần của cha mẹ, bái vọng từ đường tổ tiên, khao thưởng
quân dân. Vời gọi người già, nhân dân cùng đến dự yến tiệc, ban cho nhân dân
300 quan tiền để làm ân tình trọng hậu, ban thưởng tiệc mừng đã xong. Ông thứ nhất,
thong thả du chơi xứ đất trong trang, nhìn thấy thế đất hình bàn cờ ở đầu chợ, binh đồn ở đấy. Ông ngao du thưởng
gió trăng. Về sau tục truyền lại gọi là xứ Đồng Mác (hoặc Đồng Mát). Lại đến phía
Tây của dân thì trông thấy địa
thế hình chim nhạn, rồi sau có hình viên Kim tinh đứng ở đất đấy, rồi tự nhiên hóa
mất (tức vào giờ Ngọ, ngày 15 tháng
3). Về sau này, tục truyền lại gọi là Mả Soi (còn ông thứ hai, ông thứ ba,
người em gái thứ tư, hóa mất ở sự tích khác). Trong khi đang hóa mất,
trời đổ mưa lớn, sấm sét đùng đoàng, được một phút chốc thì trời
đất quang đãng, sáng sủa, sấm sét tự nhiên lặng yên.
Nhân dân đến chỗ đấy xem đã trông thấy đất được côn trùng
bao lại thành mộ lớn. Nhân dân dâng biểu tâu lên nhà vua. Vua rất thương xót cho công thần lớn lao có công lao sáng rỡ với triều
đình quốc gia. Vua bèn mệnh sứ thần
đến chỗ đấy làm lễ viếng. Lại ban cho nhân dân [17a] 300 quan tiền dựng một ngôi miếu, hương hỏa phụng thờ mãi
mãi. Bao phong mỹ tự là Thượng đẳng Phúc thần,
muôn đời hưởng tế tự, mãi mãi
làm phép tắc thường hằng. Tốt đẹp vậy
thay!
Phong Bản cảnh Thành hoàng Linh ứng
Đại vương.
Phong Bản cảnh Thành hoàng Quảng độ
Hiển ứng Đại vương.
Chuẩn cho trang Thủy Đường, huyện Thủy
Đường làm Hộ nhi, tại nơi đấy, hương hỏa phụng thờ.
Ngày tốt,
mùa Xuân năm Hồng Phúc thứ nhất (1572), Hàn Lâm viện Đông các
Đại học sĩ Nguyễn Bính vâng soạn.
Ngày tốt
mùa Xuân năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737), Quản giám Bách thần, Tri điện Hùng Lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền noi
theo trước mà vâng sao chép.
