Đình Nghê thuộc xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên,
Hải Phòng. Tên Đình Nghê được người dân trong và ngoài địa phương thường gọi từ
xa xưa. Bởi tại đình có con Nghê bằng đá, niên đại thế kỷ XVIII, đây là tác
phẩm nghệ thuật điêu khắc đẹp, độc đáo của thành phố Hải Phòng. Cũng như các thôn,
làng của vùng đồng bằng Bắc bộ, theo truyền thống văn hóa, ngôi đình được người
dân làng văn hóa Hàn Bến xây dựng để phụng thờ Thành hoàng, cầu mong sự che chở
phù hộ của Ngài với người dân trong cuộc sống. Đình Nghê cũng là nơi cộng đồng
dân cư sinh hoạt, lưu giữ, bảo tồn những giá trị lịch sử văn hóa truyền thống
tốt đẹp của địa phương.

Từ trung tâm thành phố Hải Phòng có thể đi bằng
các phương tiện thô sơ, xe cơ giới, qua nhiều ngả đường khác nhau về thị trấn
Núi Đèo, Thủy Nguyên, đi tiếp về xã Kênh Giang. Từ đây theo đường liên xã về xã
Chính Mỹ, đình Nghê nằm bên cạnh con đường trên. Hoặc từ nội thành qua Cầu Kiền
về ngã ba Trịnh Xá, theo đường tỉnh lộ 352 về xã Chính Mỹ và về Đình Nghê
Làng văn hóa Hàn Bến gồm thôn 1 và thôn 12
thuộc xã Chính Mỹ. Làng văn hóa Hàn Bến trước năm 1901 nằm trong xã Dưỡng Chân,
tổng Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương (triều Nguyễn
do kiêng húy nên đổi là Dưỡng Chính, Thủy Đường đổi thành Thủy Nguyên).
Dưỡng Chân là một vùng đất cổ được hình thành
muộn nhất vào trước thời Đinh thế kỷ X, bởi theo Hòa thượng Kim Cương Tử,
nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam cho biết vua Lê Hoàn là
con cầu tự tại chùa Linh Sơn, tức chùa Mỹ Cụ thuộc trang Dưỡng Chân. Thời Hậu
Lý thế kỷ XI, triều vua Lý Thánh Tông (1028-1054), trang Dưỡng Chân đã có 4 anh
em họ Hoàng: Hoàng Uy, Hoàng Tế, Hoàng Thiện và Hoàng Trinh Nương là danh tướng
giúp vua đánh giặc xâm lược Chiêm Thành. Sau chiến thắng các Ngài được vua
phong chức tước lớn. Khi mất được phong làm Phúc thần và được người dân suy tôn
làm Thành hoàng làng.
Theo sách “Từ điển bách khoa địa danh Hải
Phòng”, tổng Dưỡng Chân gồm 6 xã, thôn: Dưỡng Chân, Trại Kênh, Mỹ Cụ, Hà Luận,
Mỹ Giang và thôn Trúc Sơn. Thời nhà Trần Dưỡng Chân là điền trang, thái ấp của
Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), ông là Thân vương nhà Trần, là con trai của
Trần Liễu, anh ruột của Trần Quốc Tuấn, cũng là anh ruột của Hoàng hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm vợ vua Trần Thánh Tông. Ông là nhà Phật học nổi tiếng, thày dạy
của Đệ nhất tam tổ Trúc Lâm, Trần Nhân Tông. Ông cũng là bậc kiệt tướng người có
nhiều công lao to lớn tham gia trực tiếp 3 lần chống giặc Nguyên Mông. Ông được
vua Trần ban tước Hưng Ninh Vương.
Theo người dân địa phương cho biết đến khai
hoang lập ấp thuở ban đầu có các dòng họ: Nguyễn, Trần, Vũ, Đỗ, Hoàng…nhưng do
binh lửa chiến tranh nên gia phả của các họ bị mất mát, thất lạc, hiện ghi chép
không được đầy đủ.
Xã Chính Mỹ trước đây là vùng địa phương giầu
truyền thống lịch sử văn hóa tâm linh, tín ngưỡng. Xã có 4 đình (Đình Cả, Đình
Hàn Cầu, Đình Nghê, Đình Mỹ Cụ), 9 miếu (trong đó 4 miếu thờ 4 vị Thành hoàng
là 4 anh em họ Hoàng), 5 chùa (Chùa Hàn Bến- Thiên Bảo tự; chùa Mỹ Cụ- Linh Sơn
tự; chùa Hàn Cầu- Hàm Long tự; Chùa Hủng- chùa Dưỡng Chính; chùa Tây- Mỹ Cụ).
Trong những ngôi chùa trên chùa Mỹ Cụ- Linh Sơn là ngôi cổ tự rất nổi tiếng nơi
cầu tự sinh ra vua Lê Hoàn như đã nói ở trên, 1 văn từ của tổng Dưỡng Chân tại
thôn Mỹ Cụ (văn từ hiện nay không còn), trong đó Đình Hàn Cầu đã được xếp hạng
di tích của thành phố Hải Phòng.

Sau Cách
mạng tháng 8, tháng 12 năm 1945 thành lập xã Chính Mỹ gồm 3 thôn: Mỹ Cụ, Dưỡng
Chính và Mỹ Giang. Tháng 8 năm 1948 do yêu cầu của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, hai xã Chính Mỹ, xã Song Sơn hợp nhất thành xã Mỹ Sơn. Năm 1952 xã Mỹ
Sơn hợp nhất với Thanh Lãng thành xã Mỹ Thanh. Năm 1956 xã Chính Mỹ được tái
thành lập gồm 2 thôn Dưỡng Chính, Mỹ Cụ, sau này có thêm thôn Hàn Cầu.
Người dân Dưỡng Chính sinh sống chủ yếu bằng
nghề canh nông. Trước kia người dân Dưỡng Chính còn có nghề thủ công truyền
thống đan lát tre, đã phát triển qua hàng trăm năm, có thời kỳ nghề đan nát tre
ở địa phương phát triển rất mạnh mẽ, sản phẩm tre đan có mặt ở nhiều tỉnh thành
trong cả nước. Do cơ chế thị trường sản phẩm nhựa, kim loại cạnh tranh nên nghề
truyền thống đan nát tre đã bị suy vi dần. Hiện nay vẫn còn những gia đình theo
nghề nhưng sản phẩm không còn được nổi tiếng, ưa chuộng như xưa.
Theo bản thần tích xã Dưỡng Chính, tổng Dưỡng
Chính, huyện Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An, hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán
Nôm. Thần tích do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn niên hiệu Hồng Phúc năm
đầu 1572, Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh, Thiếu khanh Nguyễn Hiền sao
lại vào niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 3 (1737), được tóm tắt như sau: Vào thời vua
Lý Thái Tông, tại trang Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường có gia đình ông Hoàng
Nghiêm vợ Nguyễn Thị Xuyên là những người nhân từ, đức độ, người dân địa phương
rất yêu mến, kính trọng. Ngày 3 tháng 11 năm Qúy Sửu sinh đôi được hai người
con trai là Hoàng Uy, Hoàng Tế. Đến ngày 18 tháng 2 năm Kỷ Mão, ông bà Nghiêm
lại sinh đôi được 2 người con là Hoàng Thiện và Hoàng Trinh Nương. Gia đình ông
Nghiêm sống trong cảnh thanh bần, nhưng hòa thuận, yêu thương đùm bọc nhau. Cả
bốn anh em đều có sức khỏe, lại có thiên tư dĩnh ngộ nên đều có văn võ toàn tài.
Thời đó có quân Chiêm Thành xâm lược nước ta, vua Lý Thánh Tông trực tiếp làm
tướng cầm quân đánh giặc. Khi hành quân qua vùng Dưỡng Chân, huyện Thủy Đường, thấy
3 anh em Hoàng Uy mải mê câu cá trên hồ, nhà vua hỏi cũng không trả lời. Vua
rất giận liền mời dân làng, phụ mẫu của 3 anh em đến có ý trị tội 3 anh em
Hoàng Uy. Nhưng người em gái Trinh Nương đã xin nhà vua cho 4 anh em đi đánh
giặc để lập công chuộc tội. Vua thấy 4 người đều tài giỏi nên đã chấp nhận,
Trinh Nương cải làm trai cùng đi đánh giặc với các anh. Bốn anh em Hoàng Uy đã
lập chiến công lớn trên chiến trường. Đất nước thanh bình vua sắc phong cho ba
anh em Hoàng Uy là Đô hộ Đại tướng quân, phong cho Trinh Nương là Bình Nguyên
Công Chúa. Thời gian sau vào ngày 6 tháng Giêng ba ông cùng mất tại quê nhà,
sau đó ba ngày Trinh Nương cũng mất. Dân làng tấu lên triều đình, vua cho sứ
thần mang sắc phong về trang lệnh cho địa phương lập miếu phụng thờ bốn Ngài.
Vua còn ban cho 300 quan tiền để hương hỏa cho các Ngài, ban phong cho bốn vị
là Thượng đẳng Phúc thần. Ngài Hoàng Uy được phong: Thiên tích Diệu hoằng, Cơ
cán, Hộ quốc Đại Vương. Ngài Hoàng Tế được phong Trung quốc, Dẫn phù, Ngự minh
linh, Đại Vương. Ngài Hoàng Thiện được phong là Quảng tế, huệ trạch, Thiên ứng,
Đại Vương. Trinh Nương được phong là Thiệu trinh, Tôn linh, Công Chúa. Theo sắc
lệnh nhà vua và nhớ ơn các vị, người dân đã lập 4 ngôi miếu thờ 4 anh em họ
Hoàng. Sau này dân làng xây dựng ngôi đình chung để thờ người anh cả Hoàng Uy,
gọi là Đình Hàn Cầu. Xây dựng Đình Nghê phụng thờ Ngài Hoàng Thiện, người em
thứ ba trong 4 vị Thành hoàng họ Hoàng.

Đình Nghê tương truyền được xây dựng từ thời
Hậu Lê thế kỷ XVIII. Theo các cụ cao
niên của địa phương cho biết đình Nghê trước đây nhìn về hướng Đông Nam. Đình
Nghê làm bằng vật liệu gỗ lim truyền thống, kiến trúc chữ đinh gồm 5 gian đại
bái, hai gian hậu cung trong đó có một gian cung cấm. Trong đình có đầy đủ đồ
thờ tự tế khí, cùng thần tích, sắc phong…Khuôn viên đình rộng, thoáng mát có
nhiều cây cổ thụ, phía trước đình có hồ nước rộng, nước chảy thông ra sông lớn.
Năm 1947 do ngôi đình là trọng điểm hoạt
động kháng chiến của địa phương nên đã bị thực dân Pháp đốt phá. Dấu tích vật
chất duy nhất còn lại của ngôi đình là con nghê bằng đá. Năm 1949-1950 người
dân địa phương dựng tạm lại đình bằng tre, cau, lợp rạ để thờ phụng Thành
hoàng. Sau đó đình bị hủy hoại theo năm tháng, năm 1990-1991 người dân xây dựng
lại ngôi đình trên nền đất cũ, năm 2004 được trùng tu, tôn tạo như ngày nay.
Đình Nghê xây dựng theo hướng của ngôi
đình cổ xưa. Đình tọa lạc trên khu đất thoáng rộng, phía trước là cánh đồng lúa
mông mênh, trải rộng dài đến sông lớn. Đình có kiến trúc truyền thống, mặt bằng
kiểu chữ đinh 5 gian tiền tế, 2 gian hậu cung, mái chảy lợp ngói mũi cổ truyền.
Trên nóc mái đình đắp trang trí lưỡng long chầu nguyệt, trụ hiên hồi đắp trang
trí đèn lồng. Trong đình được bài trí đầy đủ các đồ thờ tự tế khí như: long
ngai, bài vị, câu đối, đại tự, nhang án… Đặc biệt trong đình có ban thờ các
liệt sĩ người địa phương, trong đó có các vị đã từng làm việc hoạt động tại
đình Nghê trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Theo sách “Lịch sử Đảng bộ xã Chính Mỹ”, Nhà
xuất bản Hải Phòng -2007, trước năm 1945, thời kỳ tiền khởi nghĩa, đình Nghê là
trụ sở để tổ chức cách mạng đến bàn việc bảo vệ trị an của địa phương và tuyên
truyền đường lối cách mạng cho nhân dân. Tháng 8 năm 1945, Uỷ ban nhân dân cách
mạng lâm thời xã Dưỡng Chính ra đời và lấy Đình Nghê làm trụ sở làm việc. Đình
là địa điểm tổ chức quyên góp tiền, vàng để ủng hộ kháng chiến. Tháng 12 năm
1945, theo chỉ đạo của trên, Đình Nghê là nơi tổ chức cuộc họp quan trọng để
thống nhất thành lập xã Dưỡng Chính gồm 3 thôn: Mỹ Cụ, Dưỡng Chính và Mỹ Giang.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946 Đình Nghê là địa điểm tổ chức cuộc bầu cử hội Quốc hội
khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và cũng tại đình ngày 24 tháng
4 năm 1946, tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Thời gian đầu kháng chiến
năm 1947, Đình Nghê là nơi tập kết rào tre, cọc tre, lồ sọt…để lực lượng kháng
chiến mang chặn đánh giặc ở sông Gía, ngăn bước tiến của quân giặc Pháp. Năm
1947, Đình Nghê là địa điểm đóng quân của đơn vị bộ đội thuộc tiểu đoàn Quang
Trung, để phối hợp với địa phương đánh địch. Chính vì là địa điểm quan trọng
của cách mạng, kháng chiến, nên cuối năm 1947 bọn thực dân Pháp đã đốt cháy phá
hủy Đình Nghê.
Trải qua thời gian binh lửa chiến tranh, thăng
trầm của lịch sử hiện nay đình Nghê chỉ còn
bảo tồn được một linh vật nghê bằng đá. Nghê được tạc bằng đá xanh
nguyên khối, đây là loại đá được khai thác tại vùng núi của huyện Thủy Nguyên.
Nghê là vật linh thiêng được tạo tác đẹp, nghê trong tư thế nằm phủ phục,
ngưỡng thiên. Qua các nét hoa văn và phong cách tạo tác linh vật nghê, có thể
xác định linh vật nghê có niên đại thế kỷ XVIII. Linh vật nghê được đặt trước
đình để chầu ra cửa thánh và thường có hai con, nhưng ở đình Nghê có thể đã
thất lạc mất một. Đây cũng là ngôi đình rất hiếm thấy ở Hải Phòng có linh vật Nghê
cổ kính chầu ở ngoài cửa đình.
Hằng năm
tại Đình Nghê nhân dân địa phương tổ chức các tiết lệ theo cổ truyền để lại.
Tuy nhiên địa phương tập trung vào hai tiết lễ lớn trong năm. Vào dịp xuân,18
tháng 2 (âm lịch) nhân ngày thánh đản (ngày sinh của hai vị Hoàng Thiện và
Hoàng Trinh Nương 18 tháng 2) hội làng, hội thường diễn ra trong 3 ngày 17, 18
và 19. Trước đây lễ hội nhân dân tổ chức rước thánh bằng kiệu từ miếu cây Gạo
về đình để tế lễ mở hội. Trong hội ngoài tế lễ dâng hương, người dân còn tổ
chức các trò chơi thi đấu dân gian như: đu tiên, đánh cờ người, hát đúm, chọi
gà…Vào dịp 2 tháng 11 (âm lịch), nhân dịp ngày thánh đản (ngày sinh của hai vị
Hoàng Uy, Hoàng Tế, 3 tháng 11) đây cũng là tiết hội lớn của làng. Dịp lễ này
người dân tổ chức rước lợn ông bồ từ nhà văn hóa thôn ra đình để tế lễ. Những
người rước lợn ông bồ được chọn là những trai tân, tráng kiện, xuất thân trong
gia đình văn hóa và phải có phẩm chất đạo đức tốt. Đoàn rước lợn ông bồ có đoàn
kính tế, có ông cai đám cùng nhiều người dân tham gia. Ngày nay nhân dân địa
phương đang từng bước khôi phục, kế thừa, phát huy những nét đẹp trong sinh hoạt
văn hóa hội lễ truyền thống của tiền nhân để lại. Lễ hội ngoài phần tế lễ dâng
hương Thành hoàng, dâng hương các bậc tiên công, các anh hùng liệt sĩ, còn có
giao lưu văn nghệ, các trò chơi dân gian, các hoạt động vui chơi thể dục, thể
thao. Lễ hội Đình Nghê có giá trị hiệu quả xã hội rất cao trong việc khơi dậy truyền
thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc và
tinh thần đoàn kết cộng đồng để tạo nên sức mạnh xây dựng quê hương, đất nước
ngày càng giầu đẹp.

Để có điều kiện bảo tồn, khai thác, phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống của địa phương, tri ân tới các vị Thành hoàng đã có công với quê hương,
đất nước. Đồng thời xây dựng Đình Nghê là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống
cách mạng, kháng chiến bảo vệ quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ trong ngoài
địa phương năm 2023 Uỷ ban nhân dân thành phố đã xem xét xếp
hạng Đình Nghê, xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên là di tích lịch sử của thành phố
Hải Phòng.