
Theo dân gian tương truyền, đền Thượng Sơn được hình thành từ rất lâu đời
gắn với quá trình dân cư tới sinh sống và lập làng và nhu cầu cầu an tại nơi
rừng núi còn hoang vu. Căn cứ đặc điểm văn hóa vùng đất Thủy Nguyên, nơi còn
lưu giữ nhiều dấu tích văn hóa Đông Sơn và những truyền thuyết gắn với thời kỳ
Hùng Vương dựng nước như: di tích mộ cổ Việt Khê (xã Phù
Ninh), di tích Tràng Kênh, di tích Cao Sơn, Quy Minh... Căn cứ 03 bản sắc
phong thời Nguyễn niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924) Đền Dẹo (Diệu) Sơn (thị trấn
Núi Đèo – Ngôi đền này đã bị hủy hoại chỉ còn lưu lại 03 sắc phong) cũng ghi
nơi đây thờ vị sơn thần có gốc từ Lạc Long vương giống tên hiệu vị thần thờ tại
Đền Thượng Sơn: Hồng Lạc Vương Tôn Phái Đào Sơn Tôn Thần; Bắc Cảnh Kế Hồng Bản
Xứ Sơn Thần; Khác Tĩnh Dực Bảo Trung Hưng Lạc Long Vương Tôn Phái Đào Sơn
Thượng Đẳng Thần, vị thần thờ tại di
tích có nguồn gốc từ đặc điểm địa lý và cội nguồn văn hóa dân tộc. Thời
Trần (thế kỷ 13-14), khi Hưng Đạo Đại Vương đánh quân Nguyên - Mông đã có người
dân địa phương tham gia chống giặc. Lại Công (Văn) Thanh, một vị
tướng thời Trần được phong là Phò mã Đô úy Đại vương đánh giặc và ở lại vùng
đất này một thời gian dài sau ông ốm mất.
Thời xa xưa, đền là một miếu nhỏ ở lưng chừng dãy núi Đào Sơn hướng ra cửa
Bạch Đằng, đền là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong vùng. Nhân
dân có tương truyền xa xưa đền là một miếu đá dạng cung trần (ngại đá thờ không
có mái che). Sau đó vào khoảng thế kỷ 17, 18 được dựng với kiến trúc gỗ truyền
thống. Đến năm Khải Định thứ 9 (1924) đền được tu sửa với quy mô lớn hơn.

Thôn Núi 2 trong lịch sử không có đình làng, vì thế, đây là địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng chính của
nhân dân trong vùng.
Tại di tích còn lưu truyền những dấu tích những bức đại tự như: Duy nhạc
giáng thần (núi thiêng có thần ngự), “uy linh hiển ứng” (sự linh thiêng hiển hiện), bài vị trong khám ghi
“Thiên cao thượng đẳng giáng linh” (Trời cao giáng xuống bậc thần linh thiêng)... Đền còn lưu giữ câu đối từ xưa:
“Đào Lĩnh giáng linh phù quốc thái
Đằng Giang trừng
thanh độ dân an”
Có nghĩa:
Núi Đào cao vút hiển
thần linh thiêng phù đất nước thái bình
Sông Bạch Đằng nước
trong xanh giúp cho dân được yên vui.
Ngoài thờ vị Lạc Long
Vương tôn phái Đào Sơn Thượng, Đền Thượng Sơn cũng có ban thời Nam Tào, Bắc Đẩu
“Nam Tào Phụng”, “Bắc Đẩu Phụng”. Trong dân gian đây là hai vị thần coi việc
sinh và tử ở nhân gian,
là cầu nối giữa thần và người.
Đền Thượng Sơn còn là
nơi diễn ra những sử ký trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của nhân dân xã Thủy
Đường, huyện Thủy Nguyên giai đoạn 1947 – 1953, là một điểm hoạt động mạnh của
lực lượng du kích và bộ đội kháng chiến. Chiến dịch tổng phá tề, trừ gian,
giành quyền làm chủ diễn ra mạnh mẽ ở Thủy Đường.

Hòa bình lập lại các
đồng chí cán bộ kháng chiến chống Pháp khi tiếp tục hoạt động trên cương vị
lãnh đạo địa phương và nhận các danh hiệu cao quý của Nhà nước: Huân chương
kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, hạng Nhì...
Tại thượng lương đền Thượng Sơn còn khắc lưu dòng chữ: Khải Định củ niên
thập nhất thụ trụ thượng lương, giáng phúc cát tường. Như vậy, đến thời
niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924), đền Thượng Sơn được tu sửa với quy mô to
lớn hơn trước. Thời điểm này, đền là một kiến trúc Tiền nhất hậu Đinh. Phía
ngoài Tiền bái 3 gian kèo ke, tường hồi bít đốc, lợp ngói. Tiếp theo là tòa
Tiền cung 3 gian kèo kẻ, tường hồi bít đốc và 3 gian hậu cung kèo kẻ. Thời kỳ
Kháng chiến chống Pháp, năm 1948 – 1950, Thực dân Pháp lấy cớ du kích đánh Tây
đã khủng bố đốt làng, đốt đền. Sau đó, một gia đình họ Nguyễn đã vận động nhân
dân tu sửa lại đền. Năm 1960 – 1965, đền bị tháo rỡ làm nhà kho và trường học
của xã chỉ còn phần Hậu cung. Năm 1989, nhân dân dựng lại phần Tiền bái. Năm
2010, nhân dân đã phục dựng lại Tiền cung và hậu cung của di tích như hiện nay.

Hiện nay, đền Thượng Sơn có kiến trúc Tiền nhất, hậu Đinh. Phía trước là tòa tiền bái kiểu vì kèo kẻ,
tường hồi bít đốc, lợp ngói được dựng bằng gỗ tạp vào năm 1989, trên cơ sở kiến
trúc cũ. Tiếp theo là khu vực sân Thiên quang, chính giữa sân là một ban thờ
trung thiên. Ban thờ hình vuông, tam cấp trên ban thờ có mảng chạm khắc lưỡng
long chầu nguyệt khắc trên đá phiến vàng nhạt. Đây là phần hậu bành của ngại đá
chạm khắc hình rồng thời Nguyễn
vốn được đặt trong Hậu cung, khi tu sửa đền, nhân dân đã di chuyển ra ngoài.
Hai bên ban thờ trung thiên là ban thờ Nam Tào, Bắc Đẩu là hai vị Thiên quan
trên Thiên Đình, bên cạnh Ngọc Hoàng Thượng Đế để cai quản cõi sinh tử dưới
nhân gian.
Năm 2014, UBND thành phố Hải Phòng công nhận Đền Thượng Sơn, xã Thủy Đường
là Di tích lịch sử cấp thành phố. Năm 2017, được sự quan tâm của UBND huyện
Thủy Nguyên và Bảo tàng thành phố Hải Phòng, Đền Thượng Sơn được tiếp nhận bản
Sắc phong phục chế từ thời vua Khải Định thứ 9 do Bảo tàng lịch sử Huế cung
cấp.

Lễ hội truyền thống Đền Thượng Sơn tổ chức vào đầu mùa hạ, ngày 01, 02
tháng Tư âm lịch diễn ra tại
đền. Vào ngày này, dân làng tổ chức lễ dâng hương, tế thần. Lễ vật dâng lên có
lễ chay và lễ mặn: Lễ chay có: bánh chưng, bánh dày, bánh trôi, trầu cau, hoa
quả... lễ
mặn có thịt lợn, thịt gà, xôi, rượu…