Đền Quảng Cư thuộc xã Quảng Thanh,
huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Thủy Nguyên là vùng đất cổ được nhắc
nhiều đến trong lịch sử đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
của quân dân nhà Trần (thế kỷ 13, 14).

Thời Nguyễn (thế kỷ 19), thôn Thanh
Lãng thuộc địa phận Tổng Phù Lưu, huyện Thủy Đường (đời Đồng Khánh đổi là Thủy
Nguyên do kiêng tên húy của thân sinh vua Đồng Khánh). Sau Cách mạng tháng Tám 1945, xã Quảng Thanh được thành lập trên cơ sở
thôn Quảng Cư và thôn Thanh Lãng. Quảng Cư là một thôn phụ được mở rộng của
Thanh Lãng vào thế kỷ XVI, sau phát triển thành một làng có dân cư đông đúc,
trù phú.
Từ trung tâm thành phố, quan cầu Bính,
theo trục đường thị trấn Núi Đèo, huyện Thủy Nguyên qua cầu Bính rẽ trái
theo đường Hoa Động,
Lâm Động.... qua ngã ba Trịnh Xá, Cao Nhân đến địa phận xã Quảng Thanh. Ngôi đền nằm tại thôn 6, làng văn hóa Quảng
cư, xã Quảng Thanh.
Đền Quảng
Cư thuộc xã Quảng Thanh, huyện Thuỷ Nguyên là một di tích tưởng niệm vị trạng
nguyên đầu tiên ở mảnh đất Hải Phòng: Trạng nguyên Lê Ích Mộc.

Lê Ích Mộc
(1458-1538) sinh
ra và lớn lên tại làng Ráng, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương nay là xã
Quảng Thanh, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Tuất (1502) đời vua Lê
Hiến Tông. Dựa vào các tài liệu như: tiểu sử thiền sư chùa Thanh Lãng”, do Lê Tiến Mậu
soạn năm Giáp Ngọ (1594), “Thiên Nam Lịch Triều tiến sĩ Đăng Khoa Lục”. Lê Ích Mộc thuở nhỏ mồ côi cha mẹ, nhà nghèo nhưng rất chăm chỉ tự học. Cảm
động trước tấm lòng say mê hiếu học nhà chùa đã tiếp nhận Lê Ích Mộc vào làm đệ tử
để kèm cặp thêm. Tại đây, ngoài thời làm việc, tụng kinh niệm Phật, Lê Ích Mộc
còn say mê đèn sách. Tài học của Lê Ích
Mộc đã được nhắc đến trong nhiều tài liệu cổ. Trong “Đại Việt Đinh Nguyên
Phật Lục” chép: “Tam đông túc học chi Kim Cương”, nghĩa là sau 3 năm tự học
đã thông hiểu giáo pháp của kinh Kim Cương. Trong các cuốn Thiên Nam Lịch
Triều Tiến Sĩ Đăng Khoa Lục và Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục cho biết “Lê
Ích Mộc đỗ trạng nguyên năm 44 tuổi. Ông có sức đọc thiên kinh vạn quyển; ngoài
giờ học bài vở, ông còn đọc một khối lượng lớn kinh sách nhà Phật. Khoa thi năm
ấy, chế sách thi Đình dùng toàn bộ kinh Phật để hỏi. Lời văn của ông rất đầy
đủ, khúc triết, mạch văn chặt chẽ, ý tứ sâu sắc, ghi nhớ không hề sai sót”. Đêm
đêm, dưới ánh sáng của trăng khuya, Lê Ích Mộc chăm chỉ dùi mài kinh sử. Ông
lấy cát đổ lên mâm xoa phẳng, dùng ngón tay viết lên chữ để đọc, ghi nhớ rồi
xoá đi. Sau 3 năm ông đã thông hiểu đủ giáo lý, giáo pháp của bộ kinh kim
cương. Khoảng 5 năm Lê Ích Mộc đủ thông
hiểu các pho kinh phật, tiếng tăm của ông lừng lẫy. Ngày ngày Lê Ích Mộc ăn
chay niệm Phật ở chùa Ráng, chăm chỉ đèn sách.
Lê
Ích Mộc bước vào quan trường khi triều đình phong kiến nhà Lê đang bước vào
giai đoạn suy thoái; tham quan nhũng nhiễu khiến đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn. Do vậy, Lê Ích Mộc đã từ quan về quê trí sĩ, ông mang hiểu biết của
mình giúp dân, giúp đời. Cũng có giai thoại cho rằng: Sau khi nhà Mạc đăng quang,
Mạc Đăng Dung nghe lời tấu của người bạn đồng khoa với Lê Ích Mộc là Thám hoa
Lê Văn Thái đã mời ông ra làm quan tới chức Tả Thị Lang bộ Lễ. Nhưng dù quyền
cao chức trọng nhưng ông lại một lần nữa ông lại rũ áo từ quan về quê ở ẩn.
Trong
thời gian trí sĩ, ông thường gần gũi với dân làng, giúp dân khai hoang mở rộng
xóm làng, hướng dẫn họ từ công việc cày cấy, đồng áng; mở mang chùa làng, mở
trường dạy học... Ngày ngày ăn chay niệm phật, chăm chỉ sách đèn, ông gần gũi
dân làng chỉ bảo họ cách làm ăn, làm thuốc chữa bệnh cho dân, hướng dẫn từ công
việc cấy cày đồng áng đến cắm đăng đan lưới cho dân bắt tôm, cá. Sau những kỳ
đi giảng kinh ở những vùng xa trở về, ông thường đem về những giống cây lạ phân
phát cho dân làng trồng. Đặc biệt là giống Lim ông mang về được dân làng trồng,
đã cung cấp nguồn gỗ chủ yếu để dựng chùa, làm nhà cửa.
Sống
nơi cửa thiền đất phật, Lê Ích Mộc luôn thông cảm sâu sắc với những khó khăn
của dân làng, ông khuyên mọi người hướng về cửa phật với lòng thành tâm của chính mình
chứ không phải bằng những nghi lễ tốn kém. Không chỉ là một vị tăng sư chuyên
tâm hằng dương phật pháp, mà ông còn là một người am hiểu sâu sắc giáo lý Khổng
tử, Mạnh tử, tỏ tường sâu trình các phép thần thông huyền bí của Đạo giáo, Lão,
Trung. Ông kế thừa được truyền thống “ nhập thế gia trụ phật pháp” của các
thiền sư nổi tiếng như: Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Minh Không... chính nhờ các phương thuật huyền bí kết hợp với sự am
hiểu về y học, thiên văn, chiêm tinh, lý số... của Lê Ích Mộc mà ngồi chùa Ráng đã trở thành một sơn môn lừng lẫy.
Là
người có học vấn sâu rộng, có đạo đức mẫu mực Lê Ích Mộc còn là một thầy giáo
tận tuỵ với nghề nghiệp, yêu thương học trò. Không chỉ luyện rèn học trò ông
thường khuyên dạy dân làng cách sống, cách cư xử sao cho hoà thuận ấm êm. Ngôi
chùa Diên Phúc và từ chỉ Thanh Lãng nhờ có Lê Ích Mộc mà trở thành trung tâm
đào tạo nhân tài và giáo hoá của cả một vùng rộng lớn. Không ỷ lại là một nhà
sư, một trí sĩ, ông đã tích cực cùng với nhân dân làng Ráng khai phá vùng đầm
lầy ven sông, trồng cây gây rừng. Lê Ích Mộc đích thân trồng một rừng Lim xanh
tốt, nhân dân địa phương được hưởng lợi hết đời này qua đời khác. Vết tích rừng
lim “quan Trạng” xưa nay còn đó... Nhờ có rừng lim này mà nhân dân địa phương
có nguyên liệu tại chỗ để trùng tu Diên Phúc tự, xây đền Diên Thọ, mở rộng Từ văn, xây
đình Hoàng Giáp, chùa Lốt, chùa Vang...

Để ghi
nhớ công lao của trạng nguyên Lê Ích Mộc, nhân dân đã lập đền thờ tưởng niệm Ông.
Tuy là một công trình có quy mô không lớn, kiến trúc đơn giản, song đền thờ Trạng nguyên
Lê Ích Mộc chứa đựng những giá trị tiêu biểu. Đây là một trong những di sản hóa
hiếm hoi còn lại, góp phần nghiên cứu truyền thống khoa bảng ở Hải Phòng trong
lịch sử.
Cuộc đời và sự nghiệp của Trạng nguyên Lê Ích Mộc là một tấm gương sáng cho thế
hệ nối tiếp nhau phấn đấu, học tập. Đền Quảng Cư được Nhà nước xếp hạng Di tích
sử văn hóa năm
1992.
Cho đến nay chưa có sử liệu ghi chép
chính xác về thời điểm xây dựng đền Quảng Cư. Chỉ
biết rằng, thời
điểm Trạng nguyên Lê Ích Mộc trở về quê, ông cùng nhân dân cho xây
dựng một số ngôi đền, chùa để
hoằng dương Phật pháp và giáo hóa chúng dân: chùa Diên Phúc tự, chùa Bắc Linh tự (chùa Vang), Đông Linh Tự...
Theo dân gian thì ngôi đền có từ lâu đời, khi Trạng nguyên Lê Ích Mộc về
trí sĩ đã hưng công tu sửa lớn. Thời điểm đó cũng chưa rõ hình dáng ra sao chỉ
biết về sau. Đền Quảng Cư được Nhà nước và nhân dân đóng góp phục
dựng lại hai lần vào năm 1991
( kinh phí là 30 triệu đồng và hiện vật: Long đình, bát biểu, cửa võng) và năm
2020 (kinh phí 600 triệu đồng) với vật liệu gỗ Lim truyền thống. Đền nằm trên diện tích 3.208,81 m2, có kiểu
kiến trúc chữ đinh, gồm 3 gian tiền
đường và 01 gian hậu cung
. Theo dân gian trong vùng, trong lịch sử đền có 04 vị sắc phong gồm:
1. Vua
Lê Hiến Tông 1502
2. Vua
Thành Thái 1888 - 1906
3. Vua
Duy Tân 1907 - 1915
4. Vua
Khải Định 1916 -1925
Phía ngoài, qua khoảng sân là vào
chính điện. Bờ nóc chùa có kiểu lưỡng long chầu bánh xe luân hồi, phía hai bờ
hồi có kiểu tay ngai. Chùa lợp ngói mũi hài truyền thống. Ngôi đền có tấm bia cổ "Hộ Thần" được xây
dựng ngày 7/11/1822 thời kỳ vua Thành Thái.





Lễ Hội đền Quảng Cư diễn ra vào 8 tháng 11 và ngày
9 tháng Giêng hàng năm thu hút đông đảo nhân dân và khách thập phương tham gia
với các hoạt động văn hóa, văn nghệ thể thao như: Lễ rước phụng linh, cờ tướng,
chọi gà, bóng chuyền, hát chèo... Đền
Quảng Cư là một điểm sinh hoạt văn
hóa tâm linh của nhân dân trong vùng và khách thập phương, là di tích
Phật giáo trong hệ thống di tích Phật giáo của thành phố Hải Phòng đóng
góp vào sự phát triển của Phật giáo trong giai đoạn hiện
nay.
