
Thần phả Đền Nghè Mỹ Giang được Nguyễn Bính - Viện Đông Các
Đại Học sĩ thời Hồng Đức viết và Nguyễn Hiền - Quản giám bách thần Tri điện
Hùng lĩnh Thiếu khanh hiệu đính vào năm Vĩnh Hựu thứ 2 chép rằng:
Vào Triều Lý,
nước Việt ta có các bậc công thần dựng nước, lập công lớn nên được phong tước
và rất linh ứng. Thần tích Ba vị Đại Vương được ghi chép lại trong Quốc Triều
Lễ Bộ.
Thời Vua Hùng
dựng nước, hiệu là Bách Việt, thiên hạ thái bình, đến khi có loạn 12 sứ quân
đất đai bị phân chia rối loạn. Đến thời Vua Đinh Tiên Hoàng trị vì, nước Nam
lại thu về một mối. Nhà Lê kế vị trải qua được 3 đời, đóng đô ở Hoa Lư. Sau
chuyển sang nhà Lý. Triều Lý kéo dài 216 năm, trải qua 8 đời. Trong đó Vua Lý
Thánh Tông thực là trời phú, trí tuệ thông minh, văn võ song toàn, chăm dắt
muôn dân thanh bình cực lạc, ai ai cũng khen là đấng Minh Quân. Lúc đó ở phủ Hạ
Hồng, huyện Gia Phúc, trang Thung Độ có vị tù Trưởng họ Đoàn tên gọi là Huệ,
lấy vợ cùng huyện tên là Lê Thị Kính, phu thê cầm sắt nhịp hòa, thường làm việc
thiện tích đức. Hai, ba năm mà chưa có con, ông bà cùng nhau cầu đảo chốn linh
thiêng, ít lâu sau bà Kính có thai sinh ra một bọc có ba nam, một nữ. Rồi bỗng
nhiên hai nam, một nữ mất tích, ông bà nuôi dưỡng người con trai còn lại đến
khi trưởng thành đặt tên là Đoàn Thượng (tức Thượng Công). Năm 15 tuổi, Huệ
Công ngắm con diện mạo phi thường, thân hình cao lớn, xin cho con đi học thầy
họ Phạm ở Trang Định Quốc. Chẳng bao lâu Bách gia chi sự Thượng Công đều thông
suốt, sĩ tử cùng trang lứa đều kính phục và hâm mộ ông.

Vào giờ Mão,
ngày 10 tháng 3, Huệ Công đột nhiên chết, mộ táng trên đất thân rùa tại Bản
Trang, Thượng Công mồ côi cha sống cùng mẹ ở Trang Thung Độ, mẹ con bán nước
chè xanh làm kế mưu sinh. Hai năm sau, bỗng có giặc Nguyễn Ngao tự xưng Ngụy
tướng mang 30 vạn quân xâm lấm địa giới giang đầu, chúng đóng quân ở Bạch Đằng
Giang và An Lâm Thị. Đất nước thái bình đã lâu, nay có giặc nên triều đình lo
sợ. Vua bèn triệu tập văn võ bá quan cùng bàn tính kế sách và hạ chiến xuất
quân dẹp giặc. Ngài đích thân cầm quân xuất trận. Khi qua Thung Độ, gặp Thượng
Công diện mạo khác thường, vua bèn triệu tập người trong bản hỏi rõ về Thượng
Công. Sau khi nghe dân kể rõ cội nguồn, vua cho gọi Thượng Công đến bảo rằng
“Nay đất nước có giặc xâm lấn, Người là sứ trời sai khiến, hãy mang tài ra cứu
nước cho trẫm”. Thượng Công sau khi yết kiến vua liền xin phép thân mẫu theo
vua dẹp giặc.
Thượng Công
cùng tướng lĩnh nhà vua tiến thẳng đến sở cứ quân giặc ở Bạch Đằng Giang và An
Lâm Thị. Đại quân đóng tạm ở Mỹ Cụ trang. Vua cùng một số tướng tiên phong đi
thị sát và cắm trại tạm nghỉ ở Chợ Giang Tân (Chợ Giá ngày nay). Đây đều là
những nơi sơn lâm bí địa. Buổi sáng dậy, vua cho mời các vị bô lão để hỏi về
gia đình họ Phổ. Được biết ở Bản Trang có gia đình Phổ Danh Nguyên, vợ là Hoàng
Thị Bích sinh hạ được ba người con, một nữ, hai nam. Người nữ tên là Phổ Thị
Huyền, hai nam sinh đôi là Phổ Hóa và Phổ Hộ. Vua liền xa giá đến nơi gặp anh
em họ Phổ. Sau khi tiếp xúc, vua thấy hai vị khôi ngô tuấn tú, tướng mạo khác
thường, thông thuộc văn võ thì mừng lắm, liền giao cho hai ông cùng chỉ huy
cánh quân bộ, cùng với cánh quân thủy do Đoàn Thượng chỉ huy tiến quân đánh
địch. Giáp binh một trận, quân giặc thấy uy tướng của ba ông đều kinh sợ bỏ
chạy, quân ta thừa thắng truy đuổi, giết và bắt vô số. Tướng giặc Nguyễn Ngao
bị bắt sống. Vua vui mừng tổ chức tiệc khao quân ngay tại Bản Trang. Trong bữa
tiệc vua mới giải thích với dân làng và quân sĩ rằng: “Đêm ngủ ở Chợ Giang Tân,
Vua mơ thấy người con gái đẹp, mi thanh mục tú đến bên giường vua và nói rằng:
Để Vua phải lỗi khó nhọc này là tội ở thần dân. Thiếp là Phổ Thị Huyền, người ở
Bản Trang, bố là Phổ Danh Nguyên, mẹ là Hoàng Thị Bích, sinh hạ được ba chị em.
Thiếp không may yểu mệnh mất sớm, hai em sinh đôi của thiếp là Phổ Hóa và Phổ
Hộ. Thiếp xin tiến cử hai em trai với Vua để giúp Vua giải được lỗi khó nhọc
này”. Giấc mộng đã linh ứng. Tiếp đó nhà vua đọc bài thơ:
“Nhất triều
tụ hội hoán tinh thần
Trẫm Thị
Lương quân ngộ nghĩa thần
Trinh nữ
nhất tiêu hồn mộng báo
Mỹ Giang
hương hỏa ức niên xuân”
Đồng thời,
Vua ban cho dân làng 100 quan tiền để lập đền thờ bà Phổ Thị Huyền ở bến sông
Chợ Giang Tân (Chợ Giá ngày nay).
Tiếp đó, Vua
ban cho Đoàn Thượng Công là Đô Thống Quản đốc Đại tướng quân, phong cho ông Phổ
Hóa là Vi Hữu Bật Nguyên soái Ðại tướng quân, Phổ Hộ là Vi Tả Bật Nguyên soái
Đại tướng quân.
Sau đó, ba
ông đều hộ tống vua về triều đình. Đất nước thanh bình, Thượng Công xin vua cho
về thăm gia đình ở Trang Thung Độ, nơi gò đất thân rùa rồi hóa ngay ở đó. Hôm
đó ngày 29 tháng 9, nhân dân dâng biểu tấu triều đình, vua truyền an táng Ngài
tại đó, có ngũ nhạc lai triều.

Lại nói: Sau
khi hai ông Phổ Hộ, Phổ Hóa nhậm chức cũng xin vua về thăm quê hương tại Trang
Mỹ Giang. Khi thăm tiền đường ngày ấy là ngày mùng 1 tháng 10, hai ông qua bến
đò Vạn Tân, trời nổi gió mưa lớn, hai ông bị chìm dưới khúc sông ấy. Hai, ba
ngày sau dân Bản Trang thấy xác hai ông trôi trên dòng nước, dạt vào khe nhỏ
mắc lại ở Hồ Oa (gọi là Hốc Oa) kết thành ngôi mộ, địa hình cong thế rồng chầu,
sau gọi là đất Châu Long, nhân dân dâng biểu tấu vua, vua ban cho dân bản 200
quan tiền và truyền Bản Trang lập miếu thờ chỗ các Ngài hóa để thờ phụng mãi
mãi. Đây chính là nơi tọa cảnh Giáp Hương Quý Ất, trước đây là Hồ Oa tụ thủy,
là nơi địa linh. Vua phong Thượng Công là Quản Lĩnh Đô Thống Đại Tướng Quân -
Quyền xưng Đông Hải Uy Linh - Hách dịch Thượng Thượng Đẳng Đại Vương; Phổ Hộ là
Vi Tả Bật Nguyên soái - Đại tướng quân Dũng Trặc Thượng Đẳng Đại Vương; Phổ Hóa
là Vi Hữu Bật Nguyên soái - Đại tướng quân Uy Vũ - Thượng Đẳng Thần.

Hiện nay, bản
đền còn giữ được 12 sắc phong của các đời vua. Nơi đây chính là linh hồn, là
niềm tự hào của dân làng và địa phương.
