
Triều nhà Lý họ Việt Thường, công thần mở
mang xây dựng đất nước có công lớn đáng phong thần ba vị đại vương, ngọc phả cổ
ghi chép: Quốc triều bản chính bộ lễ công thần (bộ thứ hai bốn người bổ khiếm
văn).
Nước Việt trời Nam mở vận. Đức Thánh tổ xây
dựng cơ đồ, trải hơn hai nghìn năm vua Hùng dựng nước gọi là bách nam chi tổ.
Trải qua các triều Đinh, Lê, Lý, Trần đều là vua sáng, tôi giỏi kế truyền.
Lúc bấy giờ ở tỉnh lộ Hải Dương, phủ Kinh
Môn, huyện Thủy Đường, trang Tùng Động, khu Bính, có một danh gia họ Hoàng tên
Nghĩa, vợ là Trần Thị Phan, vợ chồng kết tóc ân ái tình nồng, trải qua nhiều
năm mà không sinh con cái. Những lúc nhàn rỗi, vợ chồng thường cùng nhau than
thở “Nhà ta ăn ở tích đức, không làm điều gì tàn ác, sao lại đến họa không con
nối dõi. Hẳn phải lập một đàn chay cầu xin trời đất trăm quan, họa may hoàng
thiên giáng phúc chăng?” Than thở rồi ông bà lập một đàn tế cầu trời đất thánh
thần giáng phúc.
Lễ cầu xong, ông bà nằm mộng thấy một
quan nhân áo mũ chỉnh tề ẵm hai thanh đồng đến trước bà Phan bảo rằng: Ta vâng
mệnh Thiên đình xuống ban cho nhà ngươi hậu phúc, cho nhà người hai thanh đồng
nuôi dậy làm con, sau này chúng sẽ lập công lớn với nước non, làm rạng rỡ tổ
tiên, dòng họ. Tỉnh lại, ông bà biết là giấc mơ. Trải trăm ngày sau, bà Phan
cảm thấy trong mình có nghén, ăn uống khác thường, trong phòng sáng rực, hương
thơm, khí tốt ngào ngạt khắp nhà như có hoàng thiên giúp đỡ. Đến kỳ, bà Phan
sinh ra một bọc hai trai (ngày mười ba, tháng hai, năm Bính Ngọ), ngày sinh hai
trẻ, trời đất mây mờ bao phủ, có tiếng kêu u u như sấm bà
ngày. Nhân dân trong trang đều cho là
thiên thánh giáng trần. Hai trẻ diện mạo khôi kỳ, thân hình sáng sủa, trán hổ,
tóc rồng, mắt như sư tử, rất khác người thường.
Bố mẹ chăm lo, nuôi dưỡng đến năm 4
tuổi, đặt người anh tên Lôi, người em là Chiêu. Ngày qua tháng lại, đến khi
mười lăm tuổi, tự nhiên hai trẻ văn võ toàn tài, anh hùng cái thế. Có tài gọi
mưa, kêu gió làm sấm chớp, biến hổ hóa rồng, xuất thần nhập thánh, biến hóa vô
cùng. Một năm chẳng may cha mẹ bị bệnh đều mất (ngày năm, tháng năm). Hai người
tuổi trẻ, nhà nghèo nhưng chí hiếu, gia đường, hương hỏa đều lo việc ninh táng
cho cha mẹ.
Hai người vừa mãn tang bố mẹ thì giặc Ma
Na nhà Tống kéo vào xâm lược nước ta. Nghe biên giới cáo cấp, nhà vua truyền
hịch cả nước: Nơi nào có anh tài về triều đánh giặc cứu nước. Việc xong nhà vua
sẽ ban thưởng chức tước, bạc vàng.
Lúc ấy, có người con trưởng nhà họ Phạm
tên là Công Tế, tướng mạo đường đường, thần uy lẫm liệt, cũng khác với người
thường. Quê ở châu Ái, phủ Thiệu Thiện, huyện An Định, trang xã Lê Xá, nghe
tiếng anh em họ Hoàng là bậc thiên tài, Công Tế bèn tìm đến giao kết bè bạn. Ba
ông thi tài đấu trí, đều là anh hùng xuất thế, khí tượng siêu quần, không phải
người thường. Lúc ấy ba ông đều vào bái tạ tiên đường rồi vào kinh ứng tuyển.
Vua nhìn thấy ba ông khác với người thường, vua hỏi họ tên, cho thi tài thuật,
ba ông tâu trình thông suốt, vua đẹp lòng trọng dụng, phong ba ông chức Trung
phẩm đại tướng quân. Ba ông tâu rằng: “ Anh em chúng thần tài sơ, trí thiển,
nay nghe nước nhà có giặc, nhà vua kén tài, anh em chúng thần muốn ra đền ơn
nước, mong được đội ơn vua làm rạng rỡ Tông đường. Chúng thần xin được vua ban
ba vạn hùng binh, một ngàn ngựa tốt, chúng thần quyết dẹp tan bọn giặc hung
tàn. Vua ưng cho, ba ông dẫn quân thẳng đến trại giặc, ra sức gọi gió kêu mưa,
sấm ran, chớp giật. Giặc Ma Na khiếp sợ ba ông là bậc thiên tài, tranh nhau
tháo chạy về bản quốc. Đất nước trở lại thanh bình. Ba ông về Triều bái yết,
đức vua cả mừng, mở tiệc lớn khao thưởng quân sĩ, gia ban chức tước. Yến tiệc,
phong thưởng xong, ba ông tâu vua xin về bản quán, thăm viếng tiên đường. Vua
ưng cho, ba ông về quê lễ vọng tiên đường, mở tiệc lớn mời dân trong trang đến
cùng ăn mừng thắng lợi. Ba ông bảo dân trang rằng: “nay giặc đã tan, dân làng
ta phải chăm chỉ việc cày cấy để cuộc sông ngày thêm no đủ”. Yến tiệc vừa xong
bỗng trời đất nổi mưa to gió lớn, sấm giật, chớp ran, trời tối như bưng, ba ông
cùng quy thần (ngày 25, tháng 11). Một lát sau, trời quang, mây tạnh, nhân dân
cùng đổ lại xem, nơi ba ông hóa thân, mối đã phong thành linh mộ. Nhân dân thấy
là linh ứng, bèn làm biểu tâu vua, vua thương là công thần, có công dẹp giặc,
bèn sai đình thần mang sắc chỉ đến bản trang truyền lập miếu nơi ba ông hóa
thân thờ phụng. Ban cho dân trang 300 quan tiền làm công quỹ thờ phụng và phong
Mĩ tự: Muôn đời thờ cúng cùng đất nước bền lâu, phép thường mãi mãi vâng theo!

Triều
nhà Lý phong:
Vị thứ
nhất: Hiển chiêu linh ứng đại vương.
Vị thứ
hai: Đô Nguyên quân Đông Hải Đại vương
Vị thứ
ba: Hiển ứng mậu đức đại vương.
Chuẩn cho phủ kinh môn, huyện Thủy Đường,
trang Tùng Động, khu Bính chăm lo thờ phụng mãi mãi.
Ngày sinh, ngày hóa tên húy ghi chép dưới
đây:
+ Ngày sinh: Mười ba, tháng hai. Lễ dùng lễ
chay tế, ca hát 1 ngày.
+ Ngày hóa: Hai mươi nhăm, tháng mười một. Dùng lễ chay kính tế, lại dùng
lợn xôi, giầu rượu đặt ở ban ngoài tế (cấm
ca hát)
+ Ngày khánh hạ: Mồng hai, tháng tám. Lễ
dùng tam sinh xôi rượu tế (ca hát 7 ngày).
Tên
húy: “Tế” - “Lôi” - “Chiêu” ba chữ, và tên húy: Thánh phụ, thánh mẫu nói rõ
ở trên, đều kiêng và cấm xưng hô (không được nói đến).
Một ngôi miếu lập tọa quý (Đông Bắc) hướng
Đinh (Tây Nam) chính là linh địa.
Một ngôi miếu lập tọa ất (Đông) hướng Tân
(Tây) chính là linh địa.
Đệ
nhất tôn thần, tên họ đẹp: Hoàng
Công Lôi.
Duệ
hiệu phong thần: Hiển chiêu linh ứng, Nam Hà đại thánh, hùng lược quý minh, an
dân vệ quốc, khoan hòa anh danh, khâm phụng tặng phong, nguy đãng huyền không,
tĩnh an quảng lợi, uông nhuận nam hải, phụ quốc tý dân, nậm trứ linh ứng, Dực
bảo trung hưng, gia tặng hoành hợp, thượng đẳng đại vương.
Đệ nhị tôn thần, tên họ đẹp: Đào Công Trí.
Duệ
hiệu phong thần: Quốc uy dương đông nhạc tá sứ nghĩa công, tộ dân hộ quốc, anh
linh dũng quyết, đoan túc dực bảo trung hưng, gia tặng trác vĩ Thượng đẳng
thần.
Đệ tam tôn thần, tên họ đẹp: Phạm Công Tế.
Duệ hiệu phong thần: Đô nguyên quân đông
hải thượng thánh uy đức minh dũng, linh ứng hộ mĩ, tế quốc vệ dân, đoan túc dực
bảo trung hưng đại vương, gia tặng trác vĩ thượng đẳng thần.
Đệ tứ tôn thần, tên họ đẹp: Hoàng Công Chiêu.
Duệ
hiệu phong thần: Chiêu ứng mậu đức, phụ quốc hộ dân, minh dũng hùng lược, Dực
phù tôn thống, đoan túc dực bảo trung hưng đại vương, gia tặng quang ý trung
đẳng thần.
Thừa
sao Ngọc phả, thần tích thượng trung đẳng tứ vị đại vương, y như chính bản
trong bia. Từ Lý, Lê triều tặng phong cấp, hiển ứng liệt lưu kỹ bản xã để đời
sau thờ phụng.
Đệ
nhất tôn thần, mĩ tính hiệu Hoàng Công Lôi thượng đẳng đại vương!
Triều Lý phong: Hiển chiêu linh ứng, Nam Hải
Đại thánh, hùng lược quý minh, an dân vệ quốc.
Vua Khải Định phong Y cựu phụng tự.
Đệ
nhị tôn thần, mĩ tính hiệu Đào Công
Trí thượng đẳng thần
Quốc
uy dương đông nhạc tá sứ nghĩa công, tộ dân hộ quốc
Đệ
tam tôn thần, mĩ tính hiệu Phạm Công
Tế thượng đẳng thần,
Đô
nguyên quân đông hải thượng thánh, uy đức minh dũng, linh ứng hộ mỹ.
Đệ tứ tôn thần, mĩ tính hiệu Hoàng Công
Chiêu, Trung đẳng thần.
Trần
triều hiển thánh, tiết chế văn vũ Hưng Đạo đại vương tiền triều sắc phong
thượng đẳng tôn thần.
Sắc phong Y cựu phụng sự
(Duy Tân năm thứ năm, ngày mồng tám, tháng
sáu nhuận)

Họ
Việt thường, triều Lê mở nước, người có công lao lớn linh ứng đáng phong thần
tước một vị đại vương. Ngọc phả từ cổ truyền ghi chép: Quốc triều bộ lễ bản
chính công thần.
Bộ thứ chín văn bổ khiếm bốn người.
Khi
xưa trời Nam đất Việt, đức nguyên thánh tổ tiên hoàng đế xây dựng cơ nghiệp lạc
hồng, Việt Nam thủy tổ, đến đời thứ hai mươi tám, muôn dặm gấm vóc giang sơn
vận hội minh vương thánh đế.
Lại nói lúc bấy giờ thế truyền ở châu Bố
Chính có một danh gia họ Đào tên
Nghiệp, vợ là Phạm Thị Chính. Hai vợ chồng cảnh nhà nghèo khó chỉ lấy canh nông
làm nguồn sống chính. Vợ chồng chung sông trải đã một năm, ba tháng mới thấy
trong mình thai nghén. Đến ngày sinh nở, sinh được một trai (sinh năm Bính
Tuất, ngày mười lăm, tháng ba, giờ Tý), diện mạo sáng sủa, khôi ngô, thân thể
cao lớn, khác với người thường. Cha mẹ chăm nuôi đến năm bẩy tuổi mới đặt tên
là Trí. Năm ấy bà mẹ bị bệnh qua
đời. Hai cha con làm lễ ninh táng cho người mẹ ở địa giới bản châu, tục gọi là
Đồng Lầu xứ, qua ba năm mãn tang, thấy cảnh nhà nghèo khổ, cha con đi tìm nơi
khác sinh nhai, tự nhủ rằng ở đâu có trời lại chẳng có gió xuân.
Một ngày kia, hai cha con đến tỉnh lộ Hải
Dương, phủ Kinh môn, huyện Thủy Đường, trang Tùng Động khu Bính, thấy là nơi
đất rộng bèn xin vào cư trú nương nhờ.
Trải qua nhiều năm, người cha trở về quê cũ
thăm viếng phần mộ tổ tiên, chẳng may bị bệnh qua đời. Công Trí được tin cha mất bèn làm lễ để tang. Được một năm, tang
phục chưa mãn, nhà ở gần đê, năm ấy nước sông Bạch Đằng dâng cao, đê vỡ, dân trang
khốn khổ, mất mùa, thiệt hại gia cầm, gia súc. Nhà vua truyền các châu, phủ
điều động dân phu đắp đê ngăn lũ. Đê đắp nhiều lần không kết quả, đắp rồi lại
vỡ. Vua lại sai triều thần thẳng đến nơi đê vỡ điều hành. Quan hiệp biện tham
tán mưu sự là Nguyễn Công Vinh vâng mệnh đến đôn đốc dân phu bồi đắp. Nước sông
cuồn cuộn dâng cao, không sao đắp được.
Công Trí nhà ở gần đê, hàng ngày xuống sông
tắm gội, mỗi khi Công Trí tắm là nước sông lại xuống phẳng lặng như tờ. Dân
trong làng thấy sự lạ kỳ bèn trình báo ông Công Vinh, Công Vinh ra xem rồi lập
ngay trai đàn cầu đảo.
Đêm đó Công Vinh mộng thấy một quan nhân
tướng mạo hệt như Công Trí đứng bên nói rằng: “Ta vâng mệnh trời xuống giúp nhà
vua lo yên việc lũ…” Tỉnh dậy biết là thần nhân báo mộng, lấy làm việc kỳ lạ
bèn làm biểu tâu vua. Vua liền sai sứ thần đến bản trang (tức Tùng Động trang)
triệu người dân và Đào Công Trí về triều bái yết. Vua phán rằng: Nay việc cứu
đê đối với triều đình đã là việc cấp bách. Triều đình đã lo bồi đắp nhiều lần
không xong, nay ta lệnh người về cùng dân phu đắp cho xong đê lộ để cho dân an
nghiệp, nước được thanh bình. Công Trí vâng mệnh về thẳng nơi đê vỡ lội xuống
tắm gội, nước sông đang dâng cao tự nhiên tan rút, phẳng lặng như tờ, đê lộ tự
nhiên cao to kiên cố. Không phải đắp mà tự thành to đẹp.
Từ đấy dân trang an nghiệp, được mùa, cau
sai, lúa tốt, người người vui hưởng phúc thanh bình, nơi nơi mừng đội ơn no ấm,
cảm tạ công đức Công Trí như trời cao biển rộng vô cùng vậy.
Việc đê lộ xong, Công Trí về triều bái yết,
vua phong Công Trí chức Trung Hoa Tể kiêm quản chủ giang đầu. Phong thưởng
xong, ông xin trở về quê nhà phủ dụ dân cư an nghiệp, vua ưng cho, lúc ấy ông
trở về quê thăm hỏi dân trang, lễ vọng tiên đường, khuyến khích dân chăm lo
nông nghiệp. Việc xong, ông bảo nhân dân rằng: “Ta vốn người thủy phủ, vâng
lệnh Thiên đình xuống giúp nước hộ dân. Nay đã hết hạn ở trần gian, ta phải trở
về thủy quốc”. Dứt lời bỗng nước sông dâng lên cao, trời mưa to gió lớn mở chia
thủy lộ, ông về thủy quốc mất vậy (ngày mồng hai, tháng mười), độ một khắc sau,
nước sông rút tan, trời quang mây tạnh, nhân dân thấy nơi người về thủy quốc,
đất đã phong thành lăng. Nhân dân thấy là linh thiêng kỳ lạ, cảm tạ ơn cao
nghĩa lớn, bèn lập miếu ngay nơi lăng hóa phụng thờ. Được một năm, gặp khi đại
hạn, dân trang bèn sửa trai lễ tế cầu, tự nhiên mưa rào trút xuống chan hòa
nước cấy cày, mùa màng bội thu, người khang vật thịnh vô cùng.
Cho đến năm ấy, vua Lê khởi nghĩa Lam
Sơn, hành quân qua Tùng Đông trang, qua nơi linh miếu, tự nhiên long giá đứng
lại không tiến được. Nhà vua cho là linh thiêng kỳ lạ, bèn triệu nhân dân bản
trang truyền sửa lễ tế, tự nhiên long giá tiến lên. Nhà vua thấy là linh thiêng
cảm nghĩ công đức, bèn gia ban nhân dân ba trăm quan tiền hương hỏa và bao
phong mĩ tự:
Thượng đẳng phúc thần, vạn cổ huyết
thực, dữ quốc đồng hưu, vĩnh vi hằng thức, hãy nghe theo.
Phong thần: Quốc uy dương đông nhạc tá
sứ nghĩa công đại vương
Chuẩn cho phủ Kinh Môn, huyện Thủy
Đường, trang Tùng Động khu Bính là chính sở lo liệu thờ cúng mãi mãi.
Ngày
sinh, ngày hóa và tên húy ghi sau đây:
Ngày sinh: Mười lăm, tháng ba. Lễ dùng
trai bàn bánh mật tế, ca hát một ngày.
Ngày hóa: Mồng hai, tháng mười. Lễ tế thịt,
xôi, rượu. (Cấm ca hát).
Ngày khánh hạ: Hai mươi mốt, tháng mười
một. Lễ tế tam sinh, xôi, rượu. Ca hát bẩy ngày.
Tên húy: Trí và tên thánh phụ, thánh
mẫu xem rõ trong thánh tích cấm xưng hô.
Ngôi miếu thờ: Tọa bắc hướng nam, chính ở đầu rồng, chính là linh địa.
Niên hiệu Hồng phúc năm đầu, mùa xuân
ngày đẹp. Viên Hàn lâm Đông các đại học sĩ Nguyễn Hiền Phụng soạn:
- Hoàng Triều Vĩnh Hựu năm thứ ba, mùa
đông ngày đẹp, quản giám bách quan, Tri điện hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền
tuân phụng sao theo y bản chính tiền triều.
- Đông Hải tôn thần, Nam Hải tôn thần,
linh ứng chi thần, hộ quốc tý dân, nậm trứ linh ứng. Hướng lai mông ban, cấp
sắc văn tứ, bất ly ảnh mệnh, miên liên thần hưu. Kỳ đông hải trước phong dũng
quyết hoằng thi quảng tế hàm chương bỉnh chính, trác vĩ dực bảo trung hưng
thượng đẳng thần.
- Nam Hải trước phong, nguy tuấn huyền
thông, tĩnh an quảng lợi, uông nhuận trung đẳng thần.
- Linh ứng trước phong, hiển liệt phu hựu,
hoằng huống thuần chính, dực bao trung hưng chi thần.
Đặc chuẩn: theo như trước phụng thờ, thần
kỳ giúp đỡ bảo vệ dân của Trẫm, hãy tuân theo!
- Đang cảnh thành hoàng Niễm Nghĩa, sắc
phong linh ứng đại vương.
Ngọc Phả ghi chép từ đời xưa, sao y
bản chính trong bia thờ phụng tại Đình.

Đệ nhất tôn thần, mĩ tính hiệu Hoàng
Công Lôi.
Thượng
đẳng đại vương! Hiển chiêu linh ứng, Nam Hải đại thánh, hùng lượng quý minh, an
dân vệ quốc, khoan hòa anh danh. Khâm phụng tặng phong, nguy đãng huyền thông,
tĩnh an quảng lợi. Uông nhuận Nam Hải, phụ quốc tý dân. Nậm trứ linh ứng, Dực
bảo Trung hưng, gia tặng hoành hợp thượng đẳng đại vương.
Đệ nhị
tôn thần, mĩ tính hiệu Đào Công Trí.
Thượng đẳng thần! Quốc uy dương đông nhạc tá
sứ nghĩa công. Tộ dân hộ quốc, anh linh dũng quyết. Đoan túc dực bảo Trung
hưng, gia tặng Trác vĩ Thượng đẳng thần!
Đệ tam
tôn thần, mĩ tính hiệu Phạm Công Tế.
Đô nguyên quân Đông Hải thượng thánh. Uy đức
minh dũng. Linh ứng hộ mĩ. Tế quốc vệ dân. Đoan túc dực bảo Trung hưng đại
vương. Gia tặng Trác vĩ thượng đẳng thần.
Đệ tứ tôn thần, mĩ tính hiệu Hoàng Công Chiêu
Chiêu ứng mậu đức, phụ quốc hộ dân, minh
dũng hùng lược. Lực phù tôn thống. Đoan túc dực bảo trung hưng đại vương. Gia
tặng Quang ý trung đẳng thần.
- Trần triều hiển thánh, Tiết chế văn võ nhân
Vũ Hưng Đạo đại vương. Tiền triều sắc phong thượng đẳng tôn thần!
Đang cảnh thành hoàng Niệm nghĩa, sắc phong
linh ứng đại vương!



