Di
tích đình Đồng Lý được xây dựng vào thế kỷ 17, là một công trình kiến trúc nghệ
thuật cổ, có cấu trúc hình chữ đinh đơn giản gồm năm gian tiền đường và ba gian
hậu cung, có quy mô bề thế, được bảo tồn chắc chắn, đảm bảo tính nguyên gốc
nghệ thuật kiến trúc đình làng truyền thống có sự đan xen hài hòa giữa nghệ
thuật nhà Lê (thế kỷ 17) và nghệ thuật nhà Nguyễn (thế kỷ 19, 20).

Đình
vốn được khởi dựng trên một vùng đất cách xa làng theo lối “tiền thần hậu phật”
là mốc danh giới giữa hai xã Đồng Lý và Nhân Lý trong tổng Thái Lai xưa. Đình
nằm trên khu đất thuộc bắc thôn, xung quanh là cánh đồng lúa lan tỏa mặt tiếp
xúc với xóm dân cư đông đúc, rợp bóng cây xanh.

Đình
là nơi tôn thờ, tưởng niệm danh tướng Sỹ Quyền, một bộ tướng tâm phúc của Hai
Bà Trưng có công trong cuộc khởi nghĩa chống quân đô hộ Đông hán hồi đầu công
nguyên.
Theo cuốn ngọc phả được lưu giữ tại Bảo tàng thành phố Hải
Phòng và lưu giữ tại bản đình: Đức thánh Đại Vương người có tên húy là Sỹ Quyền:
Ngài là người đất Vấn Dương nước Lỗ Trung Quốc nay là tỉnh Sơn Đông - Trung Quốc.
Ngài là một dũng tướng của Triều Tây Hán, tránh loạn vương mãn, khi triều Đông
Hán lật đổ triều tây hán. Ngài lánh nạn sang nước Nam và cùng cư trú sống với
dân trang Đồng Lý thời xa xưa. Với dáng người trí dũng oai phong và hết mực
nhân hậu, khiêm nhường. Cũng tại trong cuốn thần phả có nêu rằng: khi ngài sinh
sống tại nơi đây với dân chúng trong làng: Hàng năm cứ nắng hạn, đồng ruộng khô
cạn việc canh nông không cấy trồng được thì người dân lại nhờ tới ngài: Hô vân
- Hoán vũ “Kêu gió gọi mưa” và ngài đứng ra tại xứ đồng cổ xưa gọi là xứ đồng
phấn, ngửa mặt lên trời chỉ tay xuống đất và cầu khẩn, lập tức trời đổ mưa lớn
trắng xóa một vùng, lấy nước cho dân trang cùng cấy cày. Cứ nhiều lần như vậy nhân
dân thời bấy giờ có câu để ngợi ca thuật:
Hoán vũ - hô vân của ngài là “Hễ ông thiên trấn ra tay, thì trời hạn hán, chẳng
mảy may hại người” và còn thường gọi ngài là ông “Thiên trấn Địa tiên” và ngay
cả khi trở thành tướng giỏi đánh giặc ngã xuống trước trận tiền hiển linh hóa
thánh thì truyền đời sau vẫn lập đàn cầu mưa; sự linh thiêng ứng nhiệm vẫn mãi
mãi còn truyền về sau này. Minh chứng cho thấy qua bức đại tự được lưu giữ trong bản đình tạc rằng:
“Đắc nhất dĩ linh” có nghĩa là nói về tính ứng linh thiêng và thuật đảo vũ cầu
mưa là độc nhất vô nhị có một không hai truyền mãi tới ngày nay.
Cũng căn cứ vào thần phả lược ghi. Vào những năm 40 - 43 sau
công nguyên, giặc Đông Hán phương bắc tràn sang nước Nam ta, quân giặc đi đến
đâu là cảnh giết chóc, bóc lột, vơ vét tàn sát dân tình đến đó. Không chịu được
cảnh cơ hàn mất nước lầm than, Hai Bà Trưng quê ở Châu Phong - Mê Linh nay là tỉnh
Vĩnh Phúc, đã khởi binh quy tụ tướng tài quân sỹ đánh giặc, thế giặc lúc bấy giờ
rất mạnh: viên quan họ lang chặn giặc ở Châu Hoan nghệ An không giữ nổi, phải
rút quân theo hướng đường biển về đóng đồn trú quân tại trang Đồng Lý chống giặc.
Dân chúng lúc bấy giờ thấy quân binh kéo về kín làng: thì cụ già, em nhỏ bồng bế
nhau đi lánh lạn, trong làng chỉ còn lại một mình ông Địa Tiên; vị quan lang
phái quân đến thỉnh mời, thì ông địa tiên đến. Qua trao đổi nhìn thấy tướng mạo,
vị quan lang lấy làm mững rỡ, vô cùng phấn khởi và giao cho ngài là chánh tướng
tiên phong. Lập kế trận đồ chờ thời cơ giặc đến là chặn đánh. Sử ghi lại rằng:
khi quân Tô Định cùng quân tướng tràn về, với tài khiển mã điều binh của đức
thánh, nhiều trận đánh khiến quân Tô Định phải khiếp vía rút lui. Nhưng rồi ỷ lại
quân hùng tướng mạnh, quân giặc lại kéo đến. Lần này ngài cùng với quân sỹ huyết
chiến đến cùng. Ngài một mình một ngựa xông lên tung hoành trước vòng vây quân
Tô Định qua lại như không có người, giặc chết như ngả rạ, nhưng thế giặc ngày
càng được tăng viện, thêm tướng, thêm quân. Quân của Ngài chống giặc sức ngày một
kiệt, thảo lương đã vãn. Biết được thế cùng của quân ta, bọn giặc dồn hết sức tấn
công, quân ta chống đỡ đến cùng, sức kiệt. Ngài quyết chống trả đến cùng khi chỉ
còn lại một mình, cuối cùng Ngài đã hy sinh anh dũng trên mảnh đất quê
hươngTrang làng Đồng Lý xưa (nay là làng
văn hóa Đồng Lý). Theo cuốn hồ sơ
văn hóa công nhận di tích Đình Đồng Lý còn ghi tại khu vực Đống Mả - Bến Khế
giáp thôn Thái Lai hiện là một dấu tích chiến trường xưa bên dòng sông cổ. Công
tích của Đức Sỹ Quyền được Vua Trưng Vương ghi nhận và ban sắc truyền cho trang
Đồng Lý dựa theo chỗ ở của ngài lập một ngôi đền để tôn thờ mãi mãi và ban cho mỹ
tự “ Huyết thục muôn đời thọ mãi với non sông” và phong tước “Đại
vương, thiên trấn thượng đẳng phúc thần”.

Gần 2000 năm lịch sử, sự tích vị tướng anh hùng hào kiệt
thành hoàng làng Đồng Lý xã Mỹ Đồng là niềm tự hào của nhân dân ta nói chung, của
làng Đồng Lý xã Mỹ Đồng nói riêng, công đức của ngài sống mãi với non sông đất
nước đã được nhiều triều đại phong sắc; đặc biệt năm 1993, Đình Đồng Lý được Bộ
Văn hóa thông tin cấp bằng công nhận di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia.

Trải qua thời gian với sự khắc nghiệt của thời tiết, nhiều hạng
mục của di tích Đình Đồng Lý đã bị xuống cấp nặng nề. Được sự quan tâm của Nhà
nước và nhân dân, Đình đã được tu bổ, tôn tạo sửa chữa nhiều lần để đảm bảo sự
chắc chắn của kiến trúc nghệ thuật cổ.


Hàng năm cứ mỗi độ xuân về, vào ngày 09,10,11 tháng Giêng Âm
lịch, nhân dân làng văn hóa Đồng Lý xã Mỹ Đồng tưng bừng, phấn khởi tổ chức lễ
hội truyền thống, tưởng nhớ ngày sinh Đức thành hoàng làng Sỹ Quyền, Ngài có
công giúp Vua Trưng Vương đánh đuổi quân Đông Hán phương bắc do Tô Định cầm đầu
vào những năm 40 - 43 sau Công Nguyên. Lễ hội được tổ
chức với phần lễ trang trọng và phần hội mang đậm chất văn hóa
của người việt.
Việc tổ chức lễ hội để nhân dân luôn phát
huy truyền thống văn hóa của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn” đã được nối
tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là đặc trưng văn hóa của người Việt Nam
nói chung - nhân dân làng văn hóa Đồng Lý nói riêng./.